Kinh tế Bulgaria

Bài chi tiết: Kinh tế Bulgaria
Số liệu thống kê tăng trưởng kinh tế (xanh lá) và tỷ lệ thất nghiệp (xanh da trời) kể từ năm 2001

Bulgaria có một nền kinh tế thị trường tự do mở và đã công nghiệp hoá, với một khu vực tư nhân lớn và khá phát triển cùng một số doanh nghiệp chiến lược thuộc sở hữu nhà nước. Ngân hàng Thế giới xếp hạng nước này là một "nền kinh tế có thu nhập trên trung bình".[90]Bulgaria đã có tăng trưởng kinh tế nhanh trong những năm gần đây[cập nhật], thậm chí dù nước này vẫn bị xếp hạng là quốc gia thành viên có thu nhập thấp nhất của EU. Theo dữ liệu của Eurostat, GDP theo sức mua tương đương trên đầu người của Bulgaria ở mức 40% mức trung bình của EU năm 2008.[91] Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính GDP trên đầu người của Bulgaria ở mức $21,242 năm 2016,[92] hay bằng một phần ba mức của Bỉ.[93] Nền kinh tế dựa chủ yếu vào công nghiệp và nông nghiệp, dù khu vực dịch vụ đang đóng góp ngày càng nhiều hơn vào tăng trưởng GDP. Bulgaria sản xuất một lượng lớn hàng chế tạo và nguyên liệu thô như sắt, đồng, vàng, bismuth, than, điện, nhiên liệu dầu mỏ đã tinh lọc, các thiết bị xe hơi, vũ khívật liệu xây dựng. Tính đến năm 2016, GDP của Bulgaria đạt 50.446 USD, đứng thứ 81 trên thế giới và đứng thứ 26 châu Âu.

Vì có tai tiếng về nạn tham nhũng cao, và rõ ràng thiếu sự kiên quyết đấu tranh với tình trạng tham nhũng ở các cấp độ cao, Liên minh châu Âu đã cho đóng băng một phần các khoản vốn khoảng €450 triệu và có thể đóng băng thêm nữa nếu chính quyền Bulgaria không thể hiện quyết tâm trong việc đấu tranh chống tham nhũng.[94]

Bulgaria đã chế ngự được tình trạng lạm phát từ cuộc khủng hoảng kinh tế sâu năm 1996–1997, nhưng những con số mới nhất[cập nhật] cho thấy tỷ lệ lạm phát đã gia tăng lên tới 12.5% trong năm 2007. Nạn thất nghiệp đã giảm từ hơn 17% hồi giữa thập niên 1990 xuống còn gần 7% năm 2007, nhưng ở một số vùng nông nghiệp tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Tình trạng lạm phát ở Bulgaria đồng nghĩa với việc nước này được chấp nhận vào eurozone sẽ không thể diễn ra cho tới năm 2013–2014.[95]

Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức khá thấp khoảng 6.3% năm 2008, nhưng đã tăng lên tới 8% năm 2009. Tăng trưởng GDP năm 2008 vẫn ở mức cao (6%), nhưng đã hầu như xuống mức âm năm 2009. Cuộc khủng hoảng có dấu ấn tiêu cực chủ yếu trên ngành công nghiệp, giảm 10% trên chỉ số sản xuất công nghiệp quốc gia, 31% trong công nghiệp mỏ, và 60% trong ngành sản xuất thép và kim loại.[96] Chính phủ dự đoán mức sụt giảm 2.2% của GDP trong năm 2010, với con số thâm hụt ngân sách 0.7%.[97]

Các ngành kinh tế

Một cánh đồng hoa hướng dương tại Dobrudja, một trong những vùng màu mỡ nhất của Bulgaria"Elatsite" và mỏ đồng sản xuất khoảng 13 triệu tấn quặng hàng năm, và tạo ra khoảng 42.000 tấn đồng, 1.6 tấn vàng và 5.5 tấn bạc.[98]

Sản lượng nông nghiệp đã giảm về tổng thể kể từ năm 1989, nhưng sản xuất đã gia tăng trong những năm gần đây[cập nhật], và cùng với các ngành công nghiệp liên quan như chế biến thực phẩm nó vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trồng cấy chiếm tỷ lệ lớn hơn chăn nuôi. Thiết bị nông nghiệp gồm hơn 150.000 máy cày và 10.000 máy gặt đập liên hợp, cùng một phi đội máy bay hạng nhẹ lớn. Bulgaria là một trong những nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp hàng đầu thế giới như hồi (thứ 6 thế giới), hạt hướng dương (11), mâm xôi (13), thuốc lá (15), hạt tiêu (18) và sợi lanh (19).[99]

Dù Bulgaria có trữ lượng nhiên liệu thiên nhiên như dầu mỏkhí khá thấp, ngành công nghiệp năng lượng phát triển cao của nước này đóng một vai trò tối quan trọng tại vùng Balkan. Vị trí địa lý chiến lược của Bulgaria biến nó trở thành một cổng quá cảnh và phân phối dầu mỏkhí tự nhiên chính từ Nga tới Tây Âu và các quốc gia vùng Balkan khác. Về sản xuất điện trên đầu người, nước này xếp hàng thứ tư tại Đông Âu. Ngoài ra, Bulgaria có một ngành công nghiệp hạt nhân mạnh vì các mục đích hoà bình. nhà máy điện hạt nhân duy nhất của Bulgaria nằm ở vùng phụ cận Kozloduy, và có tổng công suất 3.760 MW. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân thứ hai đã được Bản mẫu:Vào gần Belene với công suất dự tính 2.000 MW. Các nhà máy nhiệt điện (TPPs) sản xuất một lượng điện khá lớn, với hầu hết tập trung tại Khu phức hợp Maritsa Iztok.

Vào năm 2009, nước này có mức độ gia tăng sản xuất điện từ các nguồn có thể tái tạo như điện gió, điện mặt trời khá vững chắc, dù vẫn phải dựa chủ yếu vào các nhà máy nhiệt điện và điện hạt nhân.[100] Vì sở hữu rất nhiều rừng và đất đai nông nghiệp, biomass có thể là một nguồn cung cấp điện lớn. Điện gió cũng có tiềm năng cao, với công suất tiềm năng lên tới 3.400 MW.[101] Vào năm 2009, Bulgaria có hơn 70 turbine gió với tổng công suất 112.6 MW, và có những kế hoạch tăng gấp ba lần công suất lên 300 MW vào năm 2010.[102]

Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Dù Bulgaria không có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí tự nhiên, nước này sản xuất ra một số lượng đáng kể khoáng chất, kim loại và điện.Bulgaria là nhà sản xuất dầu mỏ hạng thấp (thứ 97 trên thế giới) với tổng sản lượng 3.520 bbl/ngày.[103]Các nhà thăm dò phát hiện ra giếng dầu đầu tiên của Bulgaria gần Tyulenovo năm 1951. Trữ lượng được chứng minh khoảng 15.000.000 bbl.Sản xuất khí tự nhiên đã sụt giảm mạnh hồi cuối thập niên 1990. Trữ lượng khí tự nhiên được chứng minh khoảng 5.663 bln. cu m.[104]

Khai mỏ là một nguồn thu xuất khẩu chủ yếu, và đã trở thành yếu tố chủ chốt của nền kinh tế Bulgaria. Nước này là nhà sản xuất than đứng hạng 19 thế giới,[105] đứng thứ 9 về sản xuất bismuth,[106] đứng thứ 19 về sản xuất đồng,[107] và 26 về kẽm.[108] Luyện kim sắt cũng có tầm quan trọng lớn. Hầu hết sản lượng thépgang có từ KremikovtsiPernik, với một cơ sở luyện kim thứ ba tại Debelt. Về sản xuất thép và sản lượng thép trên đầu người nước này đứng đầu vùng Balkan. Các nhà máy tinh luyện chìkẽm lớn nhất nằm tại Plovdiv (nhà máy tinh luyện lớn nhất giữa Ý và dãy núi Ural), KardzhaliNovi Iskar; đồng tại PirdopEliseina, nhôm tại Shumen. Về sản lượng nhiều loại kim loại trên đầu người, như kẽm và sắt, Bulgaria đứng hạng nhất ở Đông Âu. Khoảng 14% tổng sản lượng công nghiệp liên quan tới chế tạo máy và 20% nhân lực trong lĩnh vực này.[109] Tầm quan trọng của nó đã giảm bớt kể từ năm 1989.

Du lịch

Bài chi tiết: Du lịch tại Bulgaria
Quang cảnh núi Rila

Năm 2007 tổng số 5.200.000 du khách đã tới Bulgaria, biến nước này trở thành địa điểm thu hút du khách hàng thứ 39 thế giới.[110] Du khách từ Hy Lạp, Romania và Đức chiếm 40%.[111] Một số lượng lớn du khách Anh (+300.000), Nga (+200.000), Serbia (+150.000), Ba Lan (+130.000) và Đan Mạch (+100.000) tới thăm Bulgaria. Hầu hết trong số họ đều bị lôi cuốn bởi các phong cảnh tươi đẹp và đa dạng, các di sản văn hoá và lịch sử được bảo tồn tốt, và sự tĩnh lặng của các vùng nông thôn và miền núi.[cần dẫn nguồn]

Các địa điểm du lịch chính gồm thủ đô Sofia, các khu resort ven biển như Albena, Sozopol, Bãi cát VàngBãi biển Nắng; và các khu resort mùa đông như Pamporovo, Chepelare, BorovetzBansko. Các địa điểm du lịch vùng thôn quê như ArbanasiBozhentsi là nơi có các truyền thống sắc tộc được bảo tồn tốt. Các địa điểm thu hút du khách khác gồm Tu viện Rila từ thế kỷ thứ X và lâu đài Euxinograd thế kỷ XIX.

Khoa học, công nghệ, viễn thông và vận tải

Tháp chứa kính thiên văn 200cm tại Đài thiên văn Rozhen, đài thiên văn lớn nhất ở Đông Nam Âu.

Bulgaria chỉ chi 0.4% GDP cho nghiên cứu khoa học,[112] hay khoảng $ 376 triệu năm 2008. Nước này có truyền thống mạnh trong toán học, thiên văn học, vật lý và công nghệ hạt nhân và giáo dục định hướng khoa học, và có kinh nghiệm khá lớn trong nghiên cứu dược. Viện Hàn lâm Khoa học Bulgaria (BAS), cơ quan khoa học hàng đầu của đất nước, tụ tập hầu hết các nhà nghiên cứu của Bulgaria làm việc trong rất nhiều cơ sở của nó.

Các nhà khoa học Bulgaria đã có nhiều phát minh và sáng tạo quan trọng mang tính cách mạng trên bình diện thế giới. máy tính điện tử số đầu tiên của thế giới, do nhà khoa học người Bulgaria-Mỹ John Vincent Atanasoff thiết kế; đồng hồ điện tử số đầu tiên (Peter Petroff), chiếc máy bay ném bom đầu tiên (đại uý Simeon Petrov); lý thuyết động lực phân tử về hình thành tinh thểphát triển tinh thể (của Ivan Stranski) và photoelectrets (Georgi Nadjakov), đây là một bước quan trọng trong việc phát triển máy photocopy đầu tiên. Bulgaria cũng là quốc gia thứ 6 trên thế giới có nhà du hành đi vào vũ trụ. Thiếu tướng Georgi Ivanov trên tàu Soyuz 33 (1979), tiếp đó là trung tá Alexander Alexandrov trên tàu Soyuz TM-5 (1988).[113]

Đường cao tốc Trakiya

Công nghệ thông tin là một trong số các nhánh khoa học phát triển nhất của Bulgaria[cần dẫn nguồn], và vào những năm 1980 nước này đã được gọi là Thung lũng Silicon của Khối Đông Âu.[114] Theo báo cáo của Brainbench Global IT, Bulgaria xếp thứ nhất ở châu Âu về số chuyên gia IT trên đầu người[115]

và đứng thứ 8 thế giới về tổng số chuyên gia ICT, vượt xa một số nước có quy mô dân số lớn hơn nhiều.[116] Ngoài ra, Bulgaria cũng là nước có siêu máy tính mạnh nhất ở Đông Âu (một trong top 100 trên thế giới vào năm 2009), một IBM Blue Gene/P, đi vào hoạt động tháng 9 năm 2008 tại Cơ quan Công nghệ Thông tin Nhà nước.[117] Những năm sau 2000 đã chứng kiến một sự gia tăng mạnh số lượng người sử dụng Internet: năm 2000, có 430.000 người, năm 2004 – 1.545.100, và năm 2006 – 2.2 triệu người.[118]

Bulgaria có vị trí địa lý chiến lược có tầm quan trọng độc nhất. Từ những thời cổ đại, nước này đã là ngã tư đường chính giữa châu Âu, châu Áchâu Phi. Năm trong số mười Hành lang xuyên châu Âu chạy qua lãnh thổ nước này, tổng chiều dài đường bộ của Bulgaria là 102.016 km, trong đó có 93.855 km trải nhựa và 441 km là đường cao tốc. Nước này có nhiều kế hoạch xây dựng đường cao tốc, đang được tiến hành hay đã xây dựng một phần: Đường cao tốc Trakiya, đường cao tốc Hemus, đường cao tốc Cherno More, đường cao tốc Struma, đường cao tốc Maritzađường cao tốc Lyulin.

Bulgaria cũng có 6500 km đường sắt, hơn 60% đã được điện khí hoá. Có một dự án trị giá €360.000.000 triệu để hiện đại hoá và điện khí hoá tuyến đường sắt PlovdivKapitan Andreevo. Tuyến đường sắt cao tốc duy nhất trong vùng, giữa Sofia và Vidin, sẽ đi vào hoạt động năm 2017, với chi phí €3.000.000.000.[119]

Giao thông đường không đá phát triển khá toàn diện. Bulgaria có sáu sân bay quốc tế chính — tại Sofia, Burgas, Varna, Plovdiv, RousseGorna Oryahovitsa. Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1989, hầu hết các sân bay nội địa nhỏ đều bị bỏ hoang không sử dụng khi các chuyến bay nội địa giảm sút. Nước này duy trì nhiều sân bay quân sự và nông nghiệp. 128 trong tổng số 213 sân bay ở Bulgaria có đường băng cứng.

Các cảng quan trọng nhất và có lượng vận tải hàng hoá lớn nhất là VarnaBurgas. Burgas, Sozopol, NesebarPomorie là những cảng hỗ trợ cho các đội tàu đánh cá. Các cảng lớn trên sông Donau gồm RousseLom (phục vụ cho thủ đô).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bulgaria http://www.flora.biodiversity.bg/bg_flora_fr.htm http://dnes.dir.bg/2008/09/09/news3363693.html#sep... http://www.dnes.bg/obshtestvo/2008/08/15/bai-tosho... http://news.expert.bg/?id=271075 http://books.google.bg/books?id=EHI3PCjDtsUC&pg=PA... http://www.mrrb.government.bg/index.php?controller... http://www.mrrb.government.bg/index.php?lang=bg&do... http://www.sz.government.bg/pressmsg.php?id=1776 http://www.tourism.government.bg/bg/stat.php?menui... http://www.government.bg/